Chuyển đổi số trong Ngành Giáo dục và Đào tạo

Với sự phát triển không ngừng của công nghệ, chuyển đổi số có vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Trong đó, Giáo dục là 1 trong 8 ngành, lĩnh vực cần được ưu tiên chuyển đổi số trước. Chuyển đổi số đã, đang và sẽ là yêu cầu bắt buộc để các cơ sở giáo dục phải thực hiện để bảo đảm kế hoạch tiến độ, bảo đảm chất lượng đào tạo, bảo đảm mọi hoạt động trong tổ chức đào tạo và quản lý để hướng đến phát triển bền vững; góp phần đào tạo nhân lực có chất lượng, bảo đảm cho phát triển kinh tế.

Hình minh họa

1. Chuyển đổi số trong giáo dục là gì?

“Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” được phê duyệt tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3.6/2020 của Thủ tướng Chính phủ như sau:

“Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa. 100% các cơ sở giáo dục triển khai công tác dạy và học từ xa, trong đó thử nghiệm chương trình đào tạo cho phép học sinh, sinh viên học trực tuyến tối thiểu 20% nội dung chương trình. Ứng dụng công nghệ số để giao bài tập về nhà và kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh trước khi đến lớp học”.

Như vậy có hai nội dung chính cần tập trung trong việc chuyển đổi số, đó là: Chuyển đổi số trong quản lý và chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá.

2. Thực trạng thực hiện chuyển đổi số trong các nhà trường

Chuyển đổi số trong nhà trường được thể hiện qua việc sử dụng một số phần mềm trong quản lý như: Phần mềm VnEdu, phần mềm phổ cập giáo dục – xóa mù chữ, Cơ sở dữ liệu ngành http://csdl.moet.gov.vn ; phần mềm tập huấn bồi dưỡng thường xuyên của Bộ Giáo dục http://taphuan.csdl.edu.vn, đánh giá công chức: ETEP, TEMIS; phần mềm cho kế toán tài chính: MISA, quản lý tài sản; giao dịch kho bạc, phần mềm quản lý thư viện, soạn thời khóa biểu bằng phần mềm TKB, phần mềm Qoffice để quản lý công văn đi, đến, …; Sử dụng Zalo để chuyển tảu nội dung thông tin đến cán bộ giáo viên, nhân viên, phụ huynh học sinh,….

Phòng GDĐT huyện tổ chức Hội thảo chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục

Các phần mềm đã được ứng dụng trong dạy học, kiểm tra đánh giá như: các phần mềm tạo và trình chiếu bài giảng điện tử, các phần mềm thí nghiệm ảo, các ứng dụng Google Form, Google trang tính, Padlet …

Đặc biệt trong thời gian vừa qua do tình hình dịch bệnh Covid 19 diễn biến hết sức phức tạp. Với phương châm “dừng đến trường, không dừng học” các nhà trường đã tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy, học, kiểm tra và đánh giá để hoàn thành chương trình kế hoạch năm học đúng tiến độ. Các phần mềm để dạy học online, kiểm tra, đánh giá hội họp trực tuyến đã được sử dụng như: Zoom, Google meet, K12 Online, .. Tuy nhiên phương pháp trực tuyến vẫn gặp thách thức về công nghệ, cách đánh giá năng lực, kiểm soát học sinh; nhất là đối với điều kiện của học sinh vùng đặc biệt khó khăn. Việc áp dụng dạy học trực tuyến chỉ áp dụng được đối với những đơn vị có điều kiện thuận lợi, vẫn còn khá nhiều trường còn gặp khó khăn với hình thức đào tạo này, do đó việc triển khai thực hiện giảng dạy trực tuyến chưa đạt được hiệu quả như mong đợi và chưa phát huy được năng lực của người học.

Nền tảng cơ bản của chuyển đổi số trong giáo dục là phải dựa vào cơ sở vật chất, hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu số chuyên ngành, ��ường lối, chủ trương chính sách và đội ngũ lãnh đạo, cán bộ viên chức, giáo viên, học sinh. Hiện nay việc thực hiện chuyển đổi số trong các đơn vị trường học và đang tác động tích cực, mang lại hiệu quả cao trong quản lý, dạy học. Trong thời gian qua, các đơn vị trường học đã từng bước tuyên truyền nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, quản lý, giáo viên và học sinh về chuyển đổi số. Các đơn vị trường học đã trang bị tivi thông minh cho tất cả các lớp, sử dụng đường truyền internet để phủ sóng wifi trong toàn trường tạo điều kiện thuận lợi để ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học; sử dụng các phần mềm trong quản lý, trong công tác kế toán tài chính, quản lý cơ sở vật chất.…

* Những khó khăn, thách thức khi thực hiện chuyển đổi số.

– Nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý về việc chuyển đổi số ở một số đơn vị trường học còn có phần bất cập. Còn có sự nhầm lẫn, cho rằng ứng dụng công nghệ thông tin là chuyển đổi số. Nhiều giáo viên còn hạn chế về kiến thức tin học phổ thông, kĩ năng sử dụng các phần mềm; tâm lý ngại đổi mới.

- Chuyển đổi số đòi hỏi hạ tầng viễn thông phát triển ở một mức độ nhất định, mà yếu tố này liên quan nhiều đến mức độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi địa phương. Do vậy, ngành giáo dục không thể đi một mình mà phải đồng hành, phối hợp với các ngành khác. 

- Hạ tầng mạng, trang thiết bị công nghệ thông tin (như máy tính, camera, máy in,…), đường truyền, dịch vụ Internet cho nhà trường, giáo viên, học sinh - đặc biệt ở các vùng xa, vùng khó khăn – còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ, nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu cho chuyển đổi số (cả về quản lý giáo dục và dạy - học). Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng về cơ hội học tập, tiếp cận kiến thức giữa học sinh sinh viên ở các vùng miền, các nhà trường.

– Cơ sở dữ liệu của một số đơn vị trường học còn sai sót, chưa đồng bộ giữa các phần mềm, số liệu còn sai sót.

3. Một số giải pháp thực hiện công tác chuyển đổi số ngành giáo dục

– Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý và giáo viên, phụ huynh và học sinh về vai trò của ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động giáo dục và các kết quả ứng dụng công nghệ thông tin, đã đạt được

– Chuẩn bị đội ngũ nhân lực, tăng cường quản lý việc tổ chức tập huấn, hướng dẫn kĩ cho cán bộ, giáo viên, nhân viên về công nghệ thông tin. Nội dung bồi dưỡng gắn với nhu cầu thực tiễn về triển khai ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong nhà trường.

– Hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu toàn ngành đảm bảo kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu từ Trung ương đến địa phương, nhà trường và đồng bộ với các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác góp phần hình thành cơ sở dữ liệu mở quốc gia; đẩy mạnh các dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân; thực hiện số hóa triệt để, sử dụng văn bản điện tử, sổ sách học bạ sổ điểm điện tử thay thế văn bản, tài liệu giấy; hoạt động chỉ đạo, điều hành, giao dịch, họp, tập huấn được thực hiện chủ yếu trên môi trường mạng.

– Từng bước hoàn thiện, đồng bộ cơ sở hạ tầng mạng, thiết bị công nghệ thông tin phục vụ dạy học, trong đó quan tâm đến việc dạy học trực tuyến.

– Nhà trường xây dựng quy chế quản lý, duy trì và khai thác sử dụng các hệ thống công nghệ thông tin, tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin tại đơn vị. Phân công cụ thể trách nhiệm về quản lý, sử dụng hệ thống; triển khai ứng dụng công nghệ thông tin phải đi đôi với việc đảm bảo an toàn, an ninh thông tin; có các hình thức khen thưởng các tổ chức, cá nhân làm tốt.

– Thúc đẩy công tác xã hội hóa giáo dục, tìm nguồn tài trợ tích cực trang bị cơ sở vật chất và thiết bị hiện đại phục vụ cho ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và học tập.

Việc chuyển đổi số trong giáo dục đã và đang tác động tích cực, mang lại hiệu quả cao trong quản lý, dạy học, kiểm tra và đánh giá đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo đà trên tiến trình chuyển đổi số toàn diện giai đoạn tiếp theo. Chuyển đổi số không phải là công việc dễ dàng một sớm, một chiều song với sự nỗ lực, tinh thần cầu thị, quyết tâm của các đơn vị trường học, chúng ta sẽ thực hiện thành công nhiệm vụ chuyển đổi số tạo sự phát triển bền vững trong ngành giáo dục của huyện nhà./.

Tin liên quan